Vụ tranh chấp về việc mua bán hàng hóa (lúa mì) giữa một công ty của Hungary với một công ty ở Đức xét xử tại Tòa Phúc thẩm Đức
1. Các bên tranh chấp
Nguyên đơn: Bên bán (Hungary).
Bị đơn: Bên mua (Đức).
Cơ quan giải quyết tranh chấp: Tòa án Phúc thẩm Đức
2. Diễn biễn tranh chấp
Ngày 10 tháng 10 năm 2001, các bên đã ký kết hợp đồng giao 2.664,84 tấn lúa mì Hungary với mức giá 26.000,00 forints/ tấn, giao nhận hàng vào ngày 16 tháng 10 năm 2001 theo điều khoản FOB tại bến cảng Budapest Csepel, Hungary. Ngày 19 tháng 10 năm 2001 và ngày 25 tháng 10 năm 2001 lúa mì mới được bên mua chất lên các tàu chở hàng.
Người mua sau đó đã viện lý do lúa mì bị nhiễm chì và không thanh toán tiền hàng cho bên bán. Cụ thể là trong một bức thư của người mua ngày 14 tháng 11 năm 2001 thông báo cho người bán về kết quả thử nghiệm của Công ty S liên quan đến nồng độ chì (0.04 mg/ kg) và chất vomitoxin trong lúa mì. Hơn nữa, người bán được thông báo bằng thư này rằng người mua lúa mì (thứ cấp) đã từ chối chấp nhận lúa mì ở Rotterdam vì bị sâu. Và một bức thư ngày 21 tháng 11 năm 2001 và thư của luật sư Hungary của người mua ngày 3 tháng 12 năm 2001 gửi cho bên bán đề cập đến sự ô nhiễm vomitoxin của lúa mì và dẫn tới việc không thể bán được lúa mì.
Bên bán sau đó đã kiện lên Tòa án yêu cầu bên mua thanh toán
69.285.840,00 forints cộng với tiền lãi cho việc giao 2.664,84 tấn lúa mì Hungary cộng thêm 203.475,00 forints cho chi phí lưu kho do hàng hóa bị chậm nhận.
Phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp thuận yêu cầu của bên bán vì bên bán đã gửi các giấy tờ chứng nhận về hàng hóa theo thỏa thuận trong hợp đồng và Bị đơn bên mua đã không chứng minh được việc lúa mì bị nhiễm chì.
Bên mua đã kháng cáo và lập luận rằng bên bán phải chứng minh sự phù hợp của hàng hóa. Bên mua cáo buộc thêm rằng họ đã chứng minh rằng lúa mì bị nhiễm chì thông qua kết quả xét nghiệm của Công ty S. Ngoài ra, bên mua cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm đã không coi việc lúa mì nhiễm vomitoxin (một chất độc từ nấm) cũng như việc lúa mì không đáp ứng chỉ số Hagberg là bằng chứng của hàng hóa không phù hợp.
3. Phân tích án lệ và phán quyết của Tòa án phúc thẩm
Nội dung của tranh chấp liên quan đến việc vận dụng đoạn thứ tư của Điều 35 CISG. Việc xác định hàng hóa không phù hợp được Tòa án phúc thẩm xem xét trên các cơ sở sau:
3.1. Về nghĩa vụ chứng minh hàng hóa không phù hợp
Theo Tòa án phúc thẩm, bên mua phải chứng minh hàng hóa không phù hợp. Theo quy tắc của Tòa án Tối cao Liên bang Đức, tòa án của các Quốc gia ký kết khác và các học thuyết hiện thời, đó là nghĩa vụ của bên mua chứ không phải bên bán để chứng minh sự không phù hợp của hàng hóa sau khi chấp nhận hàng hóa mà không đưa ra thông báo ngay lập tức.
Bên mua trong vụ việc này được coi là chấp nhận hàng hóa thông qua việc nhận hàng thực tế theo Điều 60 (b) CISG - xảy ra vào ngày 19 tháng 10 năm 2001 và ngày 25 tháng 10 năm 2001 khi hàng hóa được chất lên các tàu chở hàng đã được người mua quy định theo điều khoản FOB tại bến cảng Budapest Csepel.
Bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng là giao hàng vào những ngày này và Bên mua không đưa ra thông báo kịp thời về việc hàng hóa không phù hợp trong những ngày này.
3.2. Về cáo buộc lúa mì bị nhiễm chì
Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định một cách đúng đắn rằng Người mua không chứng minh được lúa mì bị nhiễm chì. Việc lúa mì có bị nhiễm chì hay không được xác định trên cơ sở quy định của pháp luật về mức giới hạn ô nhiễm đối với thực phẩm. Mặc dù, có hai mức giới hạn ô nhiễm khác nhau được đưa ra là Quy định số 17/1999 về Ô nhiễm hóa chất thực phẩm của Sở Y tế Hungary (trong đó đặt ra giới hạn ở mức 0,15 mg / kg đối với bột ô nhiễm chì) và Quy định số 466/2001 (ngày 3 tháng 8 năm 2001) về giới hạn ô nhiễm thực phẩm của Ủy ban châu Âu (quy định giới hạn ở mức 0,2 mg / kg đối với lúa mì bị nhiễm chì) thì kết quả xét nghiệm được đưa ra tại Tòa là kết quả xét nghiệm của công ty S với mức độ nhiễm của các mẫu thử là nhiễm 0,04 mg/kg, cho thấy đã không có chỉ số nào bị vượt quá giới hạn theo quy định. Do đó, trong trường hợp này, Tòa nhận thấy không cần thiết phải xem xét việc chọn tiêu chuẩn nào bởi kể cả xét đến cả hai tiêu chuẩn thì vẫn không có bằng chứng nào cho thấy thực sự có mức độ chì quá mức trong trường hợp này.
Ngoài ra, việc bên mua đã không đưa ra kết quả xét nghiệm cho đến khi ra tòa và thậm chí đã không giữ lại các mẫu hàng hóa khi xảy ra tranh chấp về hàng hóa không phù hợp cũng là vấn đề đáng ngờ. Việc công ty S cũng không giữ lại các mẫu xét nghiệm cũng dẫn đến câu hỏi liệu các mẫu lúa mì được thử nghiệm bởi công ty này có thuộc về lúa mì được cung cấp bởi bên bán vào ngày 27 tháng 10 năm 2001 hay không. Và vì các mẫu không còn nữa, các xét nghiệm bổ sung là không thể. Do đó, Tòa án đã không xác thực các kết quả xét nghiệm và do đó trong trường hợp này được coi là không có bằng chứng xác thực nào chứng minh lúa mì bị nhiễm chì.
3.3. Về cáo buộc lúa mì nhiễm độc vomitoxin
Tòa án cấp sơ thẩm đã không đi sâu vào việc nhiễm độc vomitoxin trong phán quyết của mình. Bên bán đã thừa nhận rằng bên mua đã thông báo về mức độ nhiễm độc vomitoxin cao đối với lúa mì trong một lá thư ngày 14 tháng 11 năm 2001. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra của Công ty S đã được bên bán giải thích thêm rằng Liên minh châu Âu cũng như luật của Đức không có bất kỳ quy định nào về giới hạn chính thức nào đối với tỷ lệ phần trăm của chất vomitoxin.
Bên mua cũng đã không đề cập hoặc lặp lại cáo buộc ô nhiễm vomitoxin trong quá trình tố tụng tại tòa án. Do đó, Tòa án theo quy định đã không đề cập đến việc xem xét vi phạm này.
3.4. Về cáo buộc lúa mì không tuân thủ các chỉ số rơi Hagberg
Tòa án cho rằng bên mua không thể dựa vào chỉ số rơi của Hagberg như bằng chứng về sự không phù hợp của hàng hóa. Dù thực tế là các bên cùng chấp thuận về chỉ số rơi Hagberg là 230 giây và kết quả kiểm tra của Công ty GC ngày 27 tháng 10 năm 2001 và ngày 7 tháng 11 năm 2001 cho thấy chỉ số rơi lần lượt là 210 giây và 215 giây. Tuy nhiên, theo Điều 39 (1) CISG, bên mua mất quyền khiếu nại về hàng hóa không phù hợp vì đã không thông báo cụ thể về sự không phù hợp của hàng hóa trong một khoảng thời gian hợp lý như được phân tích dưới đây.
3.5. Tính kịp thời và cụ thể của thông báo của bên mua về sự không phù hợp của hàng hóa
Một thông báo theo quy định của Điều 39 CISG phải thể hiện mong muốn của người mua trong việc kiểm chứng sự phù hợp của hàng hóa và phải nêu cụ thể bản chất của việc không phù hợp, để người bán nhận thức được tuyên bố của người mua về việc hàng không phù hợp. Những điều kiện tiên quyết đã không được đáp ứng trong trường hợp này.
Cụ thể, thư của người mua ngày 14 tháng 11 năm 2001 đã không có bất kỳ nội dung nào về sự không phù hợp đối với các chỉ số Hagberg. Bức thư chủ yếu để thông báo cho người bán về kết quả thử nghiệm của Công ty S liên quan đến nồng độ chì và chất vomitoxin trong lúa mì. Hơn nữa, người bán được thông báo bằng thư này rằng người mua lúa mì (thứ cấp) đã từ chối chấp nhận lúa mì ở Rotterdam vì bị sâu.
Chỉ có một ghi chú nhỏ trong bức thư nói rằng sẽ không có vấn đề gì trong trường hợp này rằng hàng hóa bổ sung cho thấy chỉ số Hagberg thấp hơn so với thỏa thuận trong hợp đồng. Nội dung này cho thấy bên mua không nhằm mục đích tuyên bố hàng hóa không phù hợp. Cả thư ngày 21 tháng 11 năm 2001 và thư của luật sư Hungary của người mua ngày 3 tháng 12 năm 2001 chỉ đề cập đến sự ô nhiễm vomitoxin của lúa mì và do đó không thể bán được lúa mì.
Ngoài ra, trong quá trình tố tụng tại tòa án, chỉ số Hagberg chỉ được đề cập bởi bên mua đối với các chứng nhận chất lượng của Công ty GC và là cơ sở để bên mua yêu cầu xác nhận khoản thanh toán chưa đến hạn và các chứng chỉ người bán cung cấp là không đáp ứng theo thỏa thuận trong hợp đồng thay vì coi là cơ sở để xác minh hàng hóa không phù hợp.
Phán quyết của Tòa án
Tòa án đồng ý với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm rằng các chứng chỉ là bằng chứng đầy đủ. Điều này đã không được người mua tranh cãi trong quá trình tố tụng phúc thẩm.
Người bán có quyền được bồi thường thiệt hại với số tiền 203.475,00 forints theo Điều 61 (1) (b), Điều 74 CISG. Không thể chối cãi rằng một phần lúa mì đã được chuyển lên tàu theo quy định của người mua, vào ngày 17 tháng 10 năm 2001. Do hàng bị bụi bẩn vì lưu kho lâu nên đã không thể chuyển hàng hóa cho đến ngày 19 tháng 10 năm 2001. Do đó, bên bán phải chịu chi phí lưu trữ với số tiền 203.475,00 forints. Vì vậy, yêu cầu của người bán đối với tiền lưu kho không được Tòa án chấp nhận.
Tòa phán quyết về việc trả lãi theo Điều 53, 58 (1), 61 (1) (b), 74 CISG. Số tiền lãi không bị tranh chấp bởi bên mua và phù hợp với luật pháp Hungary áp dụng cho hợp đồng.
4. Bình luận chung
Từ các án lệ được trình bày ở trên cho thấy một số thực tiễn trong việc Tòa án áp dụng Điều 35 CISG để giải quyết các tranh chấp về sự phù hợp của hàng hóa trong các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau:
4.1. Thỏa thuận của các bên trong hợp đồng là cơ sở đầu tiên và quyết định để xác định sự phù hợp của hàng hóa
Các Tòa án trước tiên đều xác định các cơ sở xem xét hàng hóa không phù hợp và từ đó nhận định các bằng chứng được các bên cung cấp tại Tòa có chứng minh việc hàng hóa phù hợp hay không phù hợp các cơ sở đó không.
Quy định theo nghĩa của Điều 35 CISG cho thấy các thứ tự ưu tiên trong việc lựa chọn cơ sở để xác định sự phù hợp của hàng hóa. Trong đó, ưu tiên đầu tiên là dựa trên thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Đó là các yêu cầu/ tiêu chí về số lượng, phẩm chất hay các mô tả hàng hóa, cách đóng gói và bao bì mà hợp đồng đã quy định (Điều 35 (1) CISG). Nếu hàng hóa được giao không thỏa mãn các thỏa thuận này thì được coi là không phù hợp.
Các án lệ được trình bày liên quan đến Điều 35 cho thấy, các phán quyết chung thẩm của các Tòa án đều căn cứ trước tiên vào thỏa thuận giữa các bên về hàng hóa thể hiện trong hợp đồng hoặc đơn đặt hàng để xác định các tiêu chí đánh giá sự phù hợp của hàng hóa. Nếu hàng hóa đã được quy định cụ thể trong hợp đồng về loại hàng, thông số kỹ thuật như số lượng, chất lượng cụ thể, cách đóng gói, vận chuyển v.v.. thì phải xem xét hàng hóa có đáp ứng đúng loại và thông số kỹ thuật đã được thỏa thuận hay chưa. Nếu hàng hóa được giao đã đáp ứng các thỏa thuận này thì kể cả hàng hóa không đáp ứng tiêu chuẩn của hàng hóa thông thường cùng loại cũng không được coi là hàng hóa không phù hợp. Điều này có thể thấy rõ qua án lệ thứ nhất về tranh chấp hợp đồng mua rượu khi bên bán đã không giao chính xác chủng loại rượu có nhãn được ghi cụ thể trên hợp đồng và án lệ thứ ba về tranh chấp hợp đồng mua bán thảm khi bên bán đã giao đúng chủng loại là thảm ADOS theo hợp đồng mà bên bán đang bán kể cả thảm ADOS không đáp ứng với tiêu chí của thảm bền cũng không bị coi là hàng hóa không phù hợp.
Tuy nhiên, nếu hợp đồng mà thỏa thuận không chi tiết, cụ thể về chất lượng và các thông số kỹ thuật, cách đóng gói, bảo quản, xử lý thực phẩm hay những vấn đề đặc thù cần lưu ý kể cả các yêu cầu mang tính chất cấm đoán, hạn chế với hàng hóa thì khi phát sinh tranh chấp cũng có trường hợp các Tòa án áp dụng thực tiễn hoạt động kinh doanh, kinh nghiệm của bên và quy tắc chung trong ngành công nghiệp có liên quan để xem xét thay vì chỉ căn cứ vào thỏa thuận trong hợp đồng như trường hợp án lệ thứ hai về tranh chấp bột ớt.
Do đó, khi thỏa thuận về hàng hóa trong hợp đồng cần làm rõ ràng và chi tiết nhất có thể tất cả những yêu cầu đối với hàng hóa, kể cả những yêu cầu mang tính chất cấm, hạn chế đối với việc sản xuất, sơ chế, bảo quản, đóng gói, vận chuyển v.v... để có đủ cơ sở bảo vệ quyền khi xảy ra tranh chấp.
Ngoài ra, một vấn đề phát sinh trên thực tế là có những thỏa thuận giữa các bên không được tích hợp cùng với hợp đồng, thậm chí không được thể hiện bằng văn bản, thể hiện bằng lời nói như dưới dạng quảng cáo, tài liệu quảng cáo hoặc nhận xét bằng lời nói trong quá trình đàm phán. Vậy ở mức độ nào thì những thỏa thuận này được coi là hợp đồng, điều này trên thực tế chưa được làm rõ trong cả Công ước và thực tiễn áp dụng.
4.2. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác, Điều 35 (2) được vận dụng rất linh hoạt theo ý chí của Tòa án để xác định hàng hóa không phù hợp
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì Điều 35 (2) CISG được vận dụng để xác định hàng hóa không phù hợp, bao gồm bốn trường hợp sau:
Hàng hóa không đáp ứng được các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng. (Điều 35 (2) (a))
Hàng hóa không đáp ứng bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý (Điều 35 (2) (b)).
Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua (Điều 35 (2) (c)).
Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hóa đó. (Điều 35 (2) (d)).
Ngoại lệ của Điều 35 CISG quy định người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không phù hợp vào lúc ký kết hợp đồng.
Hàng hóa phù hợp với mục đích thông thường (Điều 35 (2) (a)):
Theo Bình luận của Ban thư ký UNCITRAL, quy định của Điều 35 có nêu về trường hợp hàng hóa thường được đặt hàng theo mô tả chung mà không có bất kỳ dấu hiệu nào cho người bán về mục đích mà những hàng hóa đó sẽ được sử dụng. Trong tình huống như vậy, người bán phải cung cấp hàng hóa phù hợp cho tất cả các mục đích mà hàng hóa có cùng mô tả được sử dụng thông thường. Tiêu chuẩn chất lượng được ngụ ý từ hợp đồng phải được xác định theo các kỳ vọng thông thường của những người mua loại hàng hóa của mô tả hợp đồng này. Phạm vi nghĩa vụ của người bán theo đoạn này không được quyết định bởi mong đợi của người bán về mục đích người mua sử dụng hàng hóa kể cả theo một trong những cách thức mà hàng hóa đó được sử dụng thông thường. Đặc biệt, nghĩa vụ cung cấp hàng hóa phù hợp cho tất cả các mục đích sử dụng thông thường của hàng hóa mô tả bởi hợp đồng cũng được áp dụng trong trường hợp người mua mua hàng để bán lại thay vì sử dụng. Nếu hàng hóa của người bán là có sẵn chỉ phù hợp với một số mục đích mà hàng hóa đó được sử dụng thông thường, người bán phải hỏi người mua những mục đích cụ thể mà những hàng hóa này được dự định để người mua có thể từ chối đặt hàng nếu cần thiết.
Đồng thời, người bán không bắt buộc phải giao hàng phù hợp cho một số mục đích đặc biệt không phải là mục đích “mà hàng hóa có cùng mô tả thường được sử dụng” trừ khi người mua “rõ ràng hoặc ngụ ý bán cho thời điểm ký kết hợp đồng” “mục đích sử dụng đó. Vấn đề này có thể phát sinh nếu người mua có ý định sử dụng hàng hóa cho mục đích không phải mục đích sử dụng thông thường. Trong trường hợp không có một số dấu hiệu từ người mua rằng mục đích cụ thể như vậy được dự định, người bán sẽ không có lý do gì để cố gắng cung cấp hàng hóa phù hợp cho mục đích đó.
Trong các án lệ được nêu, Tòa án có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật về tiêu chí hay mức giới hạn liên quan đến chất lượng của hàng hóa hoặc các quy định trong việc bảo quản, xử lý hàng (nếu có) được Tòa án lấy làm cơ sở để xác định hàng hóa có phù hợp hay không nếu các bên không có thỏa thuận cụ thể về tiêu chí chất lượng hay chủng loại hàng. Quy định của khoản 2b Điều 35 là khá mềm dẻo, theo đó sự thích hợp hay không thích hợp của hàng hoá lại hoàn toàn phụ thuộc vào “kĩ năng và suy xét của bên bán” đối với hàng hoá.
Hàng hóa phù hợp với mục đích cụ thể theo Điều 35 (2) (b)
Theo Bình luận của Ban thư ký UNCITRAL, trong trường hợp người mua muốn hàng hóa thông thường đáp ứng một số mục đích cụ thể nhưng họ có thể không biết đủ về hàng hóa đó để đưa ra thông số kỹ thuật chính xác thì người mua có thể mô tả hàng hóa mong muốn bằng cách mô tả việc sử dụng cụ thể hàng hóa sẽ được đặt. Nếu người mua rõ ràng hoặc ngụ ý cho người bán biết những mục đích đó, thì người bán phải giao hàng phù hợp với mục đích đó.
Mục đích phải được người bán biết trước thời điểm ký kết hợp đồng để người bán có thể từ chối ký hợp đồng nếu anh ta không thể cung cấp hàng hóa phù hợp cho mục đích đó. Người bán không chịu trách nhiệm về việc không giao hàng phù hợp cho một mục đích cụ thể ngay cả khi mục đích cụ thể mà hàng hóa đã mua thực tế được biết rõ hoặc ngụ ý cho anh ta nếu "các hoàn cảnh cho thấy rằng người mua đã không dựa vào, hoặc điều đó là vô lý khi anh ta dựa vào, kỹ năng và phán đoán của người bán". Ví dụ, các hoàn cảnh có thể cho thấy người mua đã chọn hàng hóa theo tên thương hiệu hoặc anh ta mô tả hàng hóa mong muốn về mặt thông số kỹ thuật cao. Trong hoàn cảnh như vậy, có thể cho rằng người mua đã không dựa vào kỹ năng và phán đoán của người bán trong việc mua hàng. Nếu người bán biết rằng hàng hóa do người mua đặt hàng sẽ không thỏa đáng cho mục đích cụ thể mà họ đã đặt hàng, thì người bán cần phải tiết lộ sự thật này cho người mua. Nếu người mua tiếp tục mua hàng thì rõ ràng anh ta không dựa vào kỹ năng và phán đoán của người bán.
Cũng sẽ không hợp lý khi người mua dựa vào kỹ năng và phán đoán của người bán nếu người bán không có ý định đặc biệt nào đối với hàng hóa được đề cập.
Hàng mẫu và kiểu dáng theo Điều 35(2)(c)
Nếu hợp đồng được đàm phán trên cơ sở mẫu hoặc kiểu dáng thì hàng hóa được giao phải đảm bảo những tiêu chuẩn như hàng hóa mà người bán đã trưng ra như mẫu hoặc kiểu dáng. Tất nhiên, nếu người bán chỉ ra rằng mẫu hoặc kiểu dáng khác với hàng hóa được giao ở một số khía cạnh nhất định, anh ta sẽ không bị trói buộc bởi những khía cạnh đó nhưng vẫn sẽ phải đảm bảo những tiêu chuẩn của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã chỉ ra là hàng hóa được giao sẽ đáp ứng.
Đóng gói hàng hóa theo Điều35(2)(d)
Đoạn này hình thành một nghĩa vụ của người bán đối với việc đóng gói hàng hóa một cách phù hợp. Quy định này đưa ra một tiêu chuẩn tối thiểu nhưng không nhằm mục đích ngăn cản người bán đóng gói hàng hóa theo cách sẽ bảo vệ hàng hóa khỏi bị hư hại tốt hơn so với cách đóng gói thông thường.
4.3. Khi áp dụng Điều 35(2)(d) phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả với việc hàng hóa không đảm bảo chất lượng như những hàng cùng loại
Các án lệ đã đề cập chỉ ra rằng thực tế khi có sự kiện hàng không được vận chuyển hay đóng gói theo cách thông thường hay do các bên quy định thì một số Tòa án sẽ yêu cầu chứng minh rằng việc không vận chuyển hay đóng gói đúng cách phải là nguyên nhân dẫn đến việc hàng hóa không đảm bảo chất lượng như hàng hóa thông thường. Nếu không có mối quan hệ nhân quả, một số án lệ đã xác định không có sự vi phạm xảy ra.
4.4. Về nghĩa vụ chứng minh của các bên
Theo quy định nội luật của một số nước và các học thuyết hiện thời, đó là nghĩa vụ của bên mua chứ không phải bên bán để chứng minh sự không phù hợp của hàng hóa sau khi chấp nhận hàng hóa mà không đưa ra thông báo ngay lập tức.
4.5. Việc xác định hàng hóa không phù hợp phải được bên mua đưa ra thông báo một cách kịp thời, cụ thể
Trong các án lệ được trình bày, có thể thấy nhiều trường hợp hàng hóa được xác định là không phù hợp nhưng bên mua đã không có hành động thông báo cụ thể, rõ ràng cho bên bán và trong một thời gian được cho là hợp lý thì bên mua sẽ mất quyền viện dẫn Điều 35 CISG để xác định hàng hóa không phù hợp.
Việc hiểu thế nào là thông báo rõ ràng và thời gian trong bao lâu là hợp lý rất khác nhau giữa các Tòa án. Có tòa án yêu cầu việc phản hồi phải ngay lập tức khi nhận hàng nhưng cũng có tòa án cho rằng có thể sau khi đã nhận được kết quả kiểm tra theo quy trình hợp lý được Chính phủ công nhận.
Một số Tòa án đã viện dẫn đến Điều 38 và Điều 39 CISG để làm căn cứ xác định bên mua đã phản hồi kịp thời về sự không phù hợp của hàng hóa. Cụ thể:
Điều 38 và Điều 39 CISG quy định rằng:
“Người mua phải kiểm tra hàng hóa hoặc bảo đảm đã có sự kiểm tra hàng hóa trong một thời hạn ngắn nhất mà thực tế có thể làm được tuỳ tình huống cụ thể” và “Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó”.
Trong trường hợp này cần lưu ý đến ngoại lệ được quy định tại Điều 40 CISG rằng, “Người bán không có quyền viện dẫn các quy định của các điều 38 và 39 nếu như sự không phù hợp của hàng hóa liên quan đến các yếu tố mà người bán đã biết hoặc không thể không biết và họ đã không thông báo cho người mua”.
4.6. Nghĩa vụ giao hàng hóa độc lập với nghĩa vụ giao hàng hóa phù hợp
Một điểm quan trọng nữa cần lưu ý là theo Công ước, nếu người bán đã bàn giao hàng hóa đáp ứng mô tả chung của hợp đồng thì được xem như họ đã “giao hàng”. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, mặc dù hàng hóa đã được "giao", người mua vẫn có quyền yêu cầu các biện pháp khắc phục sự không phù hợp của hàng hóa. Nói cách khác, nghĩa vụ của người bán theo các điều 41 và điều 42 CISG độc lập với nghĩa vụ của người bán là giao hàng phù hợp với hợp đồng.
4.7. Nhận biết của người bán về sự không phù hợp
Theo Bản bình luận của Ban thư ký về Dự thảo Công ước, Điều 35 (1) và (2) xác định trách nhiệm của người bán đối với hàng hóa không phù hợp bất kể người bán biết hay không biết về sự không phù hợp này. Nói một cách khác là người bán có trách nhiệm bất kể có lỗi hay không.
Các nghĩa vụ liên quan đến chất lượng theo các Điều 35 (2) (a) đến (d) CISG được áp dụng cho người bán vì thông thường trong bán hàng người mua mong đợi một cách hợp lý rằng hàng hóa có những phẩm chất như vậy ngay cả khi chúng không được nêu rõ trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu tại thời điểm ký hợp đồng, người mua biết hoặc không thể không biết về sự không phù hợp đối với một trong những phẩm chất đó, thì sau đó người mua không thể nói rằng anh ta mong đợi hàng hóa tuân thủ theo khía cạnh đó.
Cụm từ “không thể không biết” là đối tượng của nhiều tranh cãi giữa hệ thống thông luật và hệ thống dân luật. Hầu hết các học giả thông luật đều coi đây là yếu tố “mang tính chủ quan” và liên quan đến tình trạng nhận thức thực tế của người mua thay vì áp đặt “kiến thức mang tính xây dựng” lên người mua về những mặt hàng mà anh ta nên học.
Tuy nhiên, mọi quy tắc này đều không gắn với đặc điểm của hàng hóa đã được nêu rõ theo hợp đồng mà Đoạn 1 Điều 35 đã quy định, và do vậy thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng là cơ sở đầu tiên để xem xét mọi vấn đề./.
*Lưu ý: Căn cứ tham khảo dựa trên các Điều 35, 39, 40, 41, 42, 60 và 74 CISG.
“Ðiều 35
1. Người bán giao hàng đúng số lượng, phẩm chất và mô tả như quy định trong hợp đồng, và đúng bao bì hay đóng gói như hợp đồng yêu cầu.
2. Ngoại trừ những trường hợp đã được các bên thỏa thuận khác, hàng hóa bị coi là không phù hợp với hợp đồng nếu:
a. Hàng hóa không thích hợp cho các mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại vẫn thường đáp ứng.
b. Hàng không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người bán đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết được vào lúc ký hợp đồng, trừ trường hợp nếu căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể có thể thấy rằng không dựa vào ý kiến hay sự phán đoán của người bán hoặc nếu đối với họ làm như thế là không hợp lý.
c. Hàng không có các tính chất của hàng mẫu hoặc kiểu dáng mà người bán đã cung cấp cho người mua.
d. Hàng không được đóng phong bì theo cách thông thường cho những hàng cùng loại hoặc, nếu không có cách thông thường, thì bằng cách thích hợp để giữ gìn và bảo vệ hàng hoá đó
3. Người bán không chịu trách nhiệm về việc giao hàng không đúng hợp đồng như đã nêu trong các điểm từ a đến d của khoản trên nếu như người mua đã biết hoặc không thể không biết về việc hàng không phù hợp vào lúc ký kết hợp đồng.”
“Ðiều 39
1. Người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng hóa không phù hợp hợp đồng nếu người mua không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện ra sự không phù hợp đó.
2. Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng.”
“Ðiều 40
Người bán không có quyền viện dẫn các quy định của các điều 38 và 39 nếu như sự không phù hợp của hàng hóa liên quan đến các yếu tố mà người bán đã biết hoặc không thể không biết và họ đã không thông báo cho người mua.”
“Ðiều 41
Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trừ trường hợp người mua đồng ý nhận loại hàng bị ràng buộc vào quyền hạn và yêu sách như vậy. Tuy nhiên, nếu những quyền hạn và yêu sách đó được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ khác thì nghĩa vụ của người bán sẽ được điều chỉnh theo điều 42.”
“Ðiều 42
Người bán phải giao những hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở sở hữu trí tuệ khác mà người bán đã biết hoặc không biết vào thời điểm ký kết hợp đồng, với điều kiện nếu các quyền và yêu sách nói trên được hình thành trên cơ sở sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác.
a. Chiểu theo pháp luật của quốc gia nơi hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng bằng cách khác, nếu các bên có dự đoán vào lúc ký kết hợp đồng rằng hàng hóa sẽ được bán lại hay sử dụng bằng cách khác tại quốc gia đó, hoặc là:
b. Trong mọi trường hợp khác - chiểu theo luật pháp của quốc gia có trụ sở thương mại của người mua.
Trong trường hợp sau đây, người bán không bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ nêu trên, nếu:
a. Vào lúc ký kết hợp đồng, người mua đã biết hoặc không thể không biết về sự hiện hữu của quyền lợi hay yêu sách nói trên, hoặc là:
b. Quyền lợi hay yêu sách bắt nguồn từ sự kiện người bán đã tuân theo các bản thiết kế kỹ thuật, hình vẽ, công thức hay những số liệu cơ sở do người mua cung cấp.”
“Ðiều 60
Nghĩa vụ nhận hàng của người mua gồm:
a. Thực hiện mọi hành vi mà người ta có quyền chờ đợi ở họ một cách hợp lý để cho phép người bán thực hiện việc giao hàng và.
b. Tiếp nhận hàng hóa.”
và
“Ðiều 74
Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.”
